Các loài Chi_Hoàng_đàn

Số lượng loài được công nhận trong chi này dao động mạnh, từ 16 tới 25 hoặc hơn, tùy theo từng tác giả. Điều này là do phần lớn các quần thể là nhỏ và cô lập, và rất khó để chắc chắn liệu chúng nên được xếp vào cấp phân loại nào (loài, phân loài hay thứ). Xu hướng hiện tại là giảm số lượng loài được công nhận; khi khái niệm loài hẹp hơn được chấp nhận thì các thứ viết thụt vào trong danh sách dưới đây cũng có thể được chấp nhận như là loài khác biệt. Xem Các loài Tân thế giới dưới đây để biết thêm về sự chia tách có thể trong chi này trong tương lai.

Các loài Cựu thế giới

Các loài Cựu thế giới có xu hướng có các nón với nhiều vảy hơn (8-14 vảy, hiếm khi 6 ở loài C. funebris), mỗi vảy với một gân rộng và ngắn, không phải gai. Cupressus sempervirens là loài điển hình của chi, định nghĩa cho tên gọi của toàn bộ chi Cupressus.

Các loài Tân thế giới

Tán lá và quả nón của loài Cupressus lusitanica

Các loài bách Tân thế giới có xu hướng có nón với ít vảy hơn (4-8 vảy, hiếm khi nhiều hơn như ở C. macrocarpa), mỗi vảy với một gai hẹp thường lồi lên. Chứng cứ di truyền gần đây[5] chỉ ra rằng chúng có quan hệ họ hàng ít gần với các loài Cựu thế giới hơn là so với điều người ta từng coi là đúng trước đây, do chúng có quan hệ họ hàng gần với các chi như bách vàng (Callitropsis) và bách cối (Juniperus) hơn là so với phần còn lại của chi Cupressus. Các loài này gần đây đã được một số tác giả như Little chuyển sang chi Callitropsis[6]. Các loài Tân thế giới được tìm thấy tại các môi trường sống ven rìa các vùng đất khô cằn, và vì thế thể hiện kiểu phân bố khác khu vực tản mạn rời rạc. Kiểu phân bố này dẫn tới sự phổ biến cục bộ mất cân đối với phần lớn các loài chỉ hạn chế ở mức các quần thể lân cận nhỏ[6].